Theo y học cổ truyền
Ở Ấn độ, quả được coi là có tác dụng điều trị gan và lách to, nước sắc quả được dùng uống trị ho. Cây còn có tác dụng an thần, lợi tiểu và lợi tiêu hóa. Rễ được dùng dưới dạng thuốc đắp nóng để chữa nứt nẻ ở bàn chân.
Ở Nepal, người ta dùng quả giã nát làm thuốc nhão đắp lên trán để chữa nhức đầu nặng.
Ở Indonesia, người dân thường giã nát quả lấy nước uống chữa sốt rét và những bệnh sốt khác vì có vị đắng. Quả cây cũng có trong thành phần của một thuốc uống gồm nhiều vị để trị tiêu chảy và đau bụng.
Ở Philippines, người địa phương dùng nước sắc rễ uống để giải độc khi bị ngộ độc và cũng dùng cho phụ nữ sau khi sinh để làm giảm bớt sự chảy máu. Ở miền trung Haiti, người dân dùng lá dược liệu dưới dạng nước sắc uống chữa đau dạ dày.
Trong y học dân gian Camorun, lá cà dại hoa trắng là thuốc cầm máu.
Theo y học hiện đại
Cao chiết từ cây cà dại hoa trắng có tác dụng trên nhịp và biên độ hô hấp và trên huyết áp. Cả cây, trừ rễ có tác dụng ức chế co thắt hồi tràng cô lập chuột lang gây bởi acetylcholin clorid và histamin. Chất carpesterol có trong cây có hoạt tính chống viêm trên phù chân chuột nhắt trắng gây bằng caragenin, tương đương với hoạt tính của hydrocortisol.
Liều dùng & cách dùng
Rễ cây được dùng chữa đau bụng, uống mỗi ngày 10 – 20g, dưới dạng nước sắc.
Rễ sắc đặc dùng ngâm chữa đau răng. Quả dùng ngoài chữa ong đốt, nứt nẻ chân tay, nước ăn chân.