NỤ HOA HÒE KHÔ
Hoa hòe chứa từ 6 – 30% rutozit rutin. Rutin là một loại glucozit, khi thủy phân sẽ cho ra quexetola hay quexitin C15H1007, ramnoza và glucoza
Nụ hoa hoè chứa rutin 34%. Ngoài ra là: Bertulin, sophoradiol, sophorin A, sophorin B và sophorin C.
Vỏ quả chứa 10,5% flavonoid toàn phần và một số dẫn xuất như: Genistein, sophoricosid, sophorabiosid, kaempferol, glucosid C, rutin 4,3%.
Hạt hoa hoè chứa 1,75% flavonoid trong đó có rutin 0,5%. Một số chất khác như: Alcaloid, cytisin, n – methyl cytisin, sophocarmin, matrin. Ngoài ra còn có 8 – 24% chất béo và galactomanan.
Theo y học cổ truyền, hoa hòe chữa các chứng bệnh:
Đại tiện ra máu
Trĩ huyết
Niệu huyết
Huyết lâm
Băng lậu
Nục huyết
Xích bạch lỵ
Ung thư sang độc và dự phòng trúng phong
Theo y học cổ truyền, hoa hòe chữa các chứng bệnh:
Nâng cao sức bền thành mạch
Cầm máu, kháng khuẩn và chống viêm
Chống co thắt cơ trơn ở đường ruột và phế quản
Hưng phấn nhẹ và tăng cường sức co bóp cho tim
Hạ huyết áp, hạ mỡ máu
Làm chậm quá trình xơ vữa động mạch
Lợi tiểu và chống viêm loét
Tác dụng của hoa hòe theo Đông y
Đông y gọi hoa hòe là hòe mễ, mễ là hạt gạo. Hoa hòe có kích thước chỉ bằng hạt gạo, nghĩa là còn ở dạng nụ hoa, mới được dùng làm thuốc. Do vậy, ta phải thu hái hoa hòe ngay từ khi nó còn là nụ hoa.
Sau khi thu hái hoa hòe, người ta tuốt lấy nụ hoa, nhặt bỏ các cành con và lá còn sót lại, rồi đem sao. Do hoa hòe có giá trị, nên một số người đã làm giả mạo nụ hòe bằng cách, lấy những cành hòe nhỏ, có kích thước gần bằng nụ hoa, đem thái nhỏ, rồi trộn lẫn vào vị thuốc. Do đó đã làm giảm giá trị chữa bệnh của hoa hòe.
Theo y học cổ truyền, hoa hòe có vị đắng nhẹ, tính hơi hàn. Quy kinh can, đại tràng, có công năng lương huyết và chỉ huyết. Dùng trong các trường hợp huyết nhiệt, gây xuất huyết, như chảy máu cam, trĩ ra máu, đại
tiểu tiện ra máu. Ngoài ra có công dụng cho phụ nữ băng kinh, băng huyết.
Tác dụng của hoa hòe theo nghiên cứu y học hiện đại
Tác dụng cầm máu: Hoa hòe có tác dụng rút ngắn thời gian chảy máu, sao thành
than tác dụng càng tăng.
Tác dụng với mao mạch: Giảm bớt tính thẩm thấu của mao mạch và làm tăng độ bền của thành mao mạch.
Tác dụng hạ mỡ trong máu: Hòe bì tố có tác dụng làm giảm cholesterol trong máu của gan và ở cửa động mạch. Đối với xơ mỡ động mạch thực nghiệm, thuốc có tác dụng phòng trị.
Tác dụng đối với hệ tim mạch: Glucozid ở vỏ hoa hòe có tác dụng làm tăng lực cobóp của tim. Từ đó hạ huyết áp hữu hiệu.
Tác dụng chống viêm: Đối với viêm khớp thực nghiệm của chuột lớn và chuột nhắt, thuốc có tác dụng kháng viêm.
Tác dụng chống co thắt và chống lóet: Hòe bì tố có tác dụng giảm lực cơ trơn của đại tràng và phế quản. Tác dụng chống co thắt của hòe bì tố gấp 5 lần của rutin. Rutin có tác dụng làm giảm vận động bao tử của chuột lớn, làm giảm bớt rõ rệt ổ lóet của bao tử do thắt môn vị của chuột.
Tác dụng chống phóng xạ: Rutin làm giảm bớt tỷ lệ tử vong của chuột nhắt do chất phóng xạ với liều chí tử.